Vào thời Chúa Giê-xu giáng sinh, xứ Do Thái ở dưới ách đô hộ của đế quốc La Mã. Để bảo đảm cho việc thu thuế và kiểm soát quân sự, chính quyền La Mã thường có những cuộc kiểm kê dân số định kỳ khoảng 14 năm một lần, tất cả mọi người đi làm ăn xa đều phải trở về quê quán của mình để khai báo đúng theo quy định. Theo kế hoạch hoàn hảo mà Đức Chúa Trời đã hoạch định, chiếu chỉ của Vua Au-gút-tơ được ban hành vào đúng thời điểm Ngài đưa Con Ngài xuống thế gian. Theo chiếu chỉ này, mọi người phải trở về nguyên quán để đăng ký. Cựu Ước tiên tri rằng Đấng Mết-si-a được sinh ra thuộc dòng dõi của Vua Đa-vít. Giô-sép và Ma-ri đều là con cháu của Đa-vít, vì thế cả hai phải vượt chặng đường khoảng bảy mươi dặm để đến Bết Lê-hem là nơi sinh trưởng của Vua Đa-vít để khai tên vào sổ. Tại nơi đây, Chúa Giê-xu được sinh ra đúng như lời tiên tri trong Mi-chê 5:1, dù cha mẹ phần xác của Ngài không sống ở đó.
Những người chăn chiên bị xem là giai cấp thấp hèn trong xã hội thời bấy giờ. Vì công việc của họ được xem là không sạch, nên họ không được đến đền thờ và hội đường. Dù vậy, bởi ân sủng của Đức Chúa Trời, tin vui về Cứu Chúa ra đời được loan báo cho những người chăn chiên trước tiên. Họ đã thấy ánh sáng rực rỡ, nghe thiên sứ loan báo tin mừng và nghe các đạo quân thiên sứ hát mừng Con Thánh. Cách của Chúa là sai các thiên binh thiên sứ ca hát khi Con Thánh ra đời để truyền thông cho nhân loại sứ điệp bình an của Tin Lành. Những người thấp hèn nhất trong thế gian sẽ là người đầu tiên tiếp nhận sứ điệp đó. Con Thánh đã đem hòa bình đến cho nhân loại, ở đâu có Ngài, ở đó có sự bình an. Ở đâu có Ngài, nơi đó có sự sống và sự sáng.
Lu-ca mô tả khi sinh hài nhi Giê-xu, Ma-ri lấy khăn bọc con mình và đặt nằm trong máng cỏ. Có thể bà đã lấy rơm khô để làm lớp nệm cho con êm ái hơn. Vua muôn vua đã hạ sinh trong hoàn cảnh nghèo nàn và khiêm nhường. Ngài sinh ra làm người để phục vụ, để tìm và cứu tội nhân. Thật phù hợp với mối quan tâm của Lu-ca dành cho người nghèo, các thiên sứ đã báo tin Đấng Mết-si-a ra đời cho một nhóm người chăn chiên nghèo nàn. Họ tượng trưng cho “những tội nhân” mà Phúc Âm của sự cứu rỗi được ưu tiên loan báo cho. Sau khi thờ lạy Con Trẻ, họ vui mừng trở về tôn ngợi, chúc tụng và làm vinh hiển Danh Đức Chúa Trời trong mùa Giáng Sinh đầu tiên của nhân loại. Họ biết rằng họ đã tiếp nhận sứ điệp vô cùng đặc biệt và được đặc quyền nhìn thấy Con Đức Chúa Trời trước tiên. Qua họ và qua những thế hệ Cơ Đốc nhân tiếp nối, trong đó có chúng ta, Tin Mừng Giáng Sinh trở thành Niềm Vui Mừng Lớn Cho Mọi Người.
Sự ra đời của các bậc vua chúa thời xưa luôn được được hoàng cung và thần dân vui mừng chào đón, nhưng Con Đức Chúa Trời đã hạ sinh một cách khiêm nhường. Ngài đã đến thế gian và trải qua những giờ phút đầu tiên của đời người trong máng cỏ. Cách Con Đức Chúa Trời đến trần gian cho thấy sự khác biệt giữa những gì Đức Chúa Trời làm và những gì chúng ta làm. Chúng ta thường tìm cách tôn vinh mình, người thân của mình, nhưng Con Đức Chúa Trời đã tự bỏ mình đi và mang lấy hình hài của một đầy tớ. Trong Lu-ca 1, thiên sứ loan báo một Hài Nhi ra đời để trở nên Vua của vương quốc đời đời như thế nào. Trước đó ông Xa-cha-ri đã bày tỏ sự vui mừng nói rằng mặt trời đã mọc lên để ban ánh sáng vui mừng cho dân tộc ông và cho nhân loại ra sao. Những điều đó đã ứng nghiệm với lời tiên tri trong Ê-sai. Nhưng tại máng cỏ khiêm ti, Thánh Nhi ra đời là khởi đầu sự xung đột giữa Vương Quốc của Đức Chúa Trời và vương quốc của thế gian. Điều này chỉ kết thúc khi Con Trời trở lại làm Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa. Chúng ta hãy dành thời gian để suy nghĩ đến sự thành tín và khiêm nhường của Đức Chúa Trời, cách Ngài đã thực hiện các kế hoạch của Ngài và tình yêu thương Ngài dành cho nhân loại.
Xin Chúa giúp chúng ta tái dâng hiến đời mình để trọn đời chúng ta cứ rao truyền ơn cứu chuộc của Ngài.